Thứ 5, 08/09/2022 16:07:03 GMT+7

Rong đỏ trong thức ăn của TTCT

Đánh giá bài viết

(Contom.vn) - Nghiên cứu dưới đây đã cho thấy tiềm năng của rong S. suiae trong việc cải thiện các vấn đề dinh dưỡng và sức khỏe của TTCT.

Ứng dụng trong thủy sản

Sarcodia suae là một loài tảo đỏ trong họ Sarcodiaceae. Các hoạt động sinh học của S. suae, chủ yếu bao gồm tác dụng kích thích miễn dịch, chống viêm và chống ung thư. Lee và cộng sự (2020) đã phát hiện ra chiết xuất lỏng từ ​​S. suiae có thể làm tăng khả năng miễn dịch tế bào, biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch và cải thiện khả năng kháng bệnh của cá rô phi (Oreochromis niloticus) chống lại nhiễm khuẩn Streptococcus agalactiae. Trong S. suiae có chứa acetyl-xylogalactan, loại hoạt chất có thể gây ra hoạt động của đại thực bào trong gan và thận đầu của cá rô phi, và làm giảm quá trình apoptosis ở gan và đầu thận do lipopolysaccharide (LPS).

Nghiên cứu gần đây được công bố bởi nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Khoa học và Công nghệ Quốc gia Bình Đông và Đại học Khoa học và Công nghệ Quốc gia Cao Hùng (Đài Loan). Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định các ảnh hưởng của việc bổ sung S. suae trong thức ăn nuôi tôm đến khả năng kháng bệnh; và đánh giá khả năng miễn dịch bẩm sinh, biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch và khả năng đề kháng của tôm đối với vi khuẩn Vibrio alginolyticus.

Nghiên cứu

Rong S. suae tươi, thu được từ Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Sinh học Tung Kuang của Viện Nghiên cứu Thủy sản tại Bình Đông (Đài Loan), được làm sạch và sấy khô trong lò ở 56oC. Rong biển khô được nghiền mịn và đưa qua lưới lọc 60 mesh, sau đó được sử dụng như một nguyên liệu bổ sung trong thức ăn của tôm. Công thức thức ăn được nêu trong Bảng 1. Có 4 chế độ ăn, bao gồm chế độ ăn đối chứng (S0) (chế độ ăn cơ bản bột cá) và 3 khẩu phần thử nghiệm lần lượt ở các mức 2,5% (S2,5), 5% (S5), và 7,5% (S7,5) bột rong biển.

Tôm thí nghiệm được phân thành 4 nhóm gồm 150 con/nhóm (trọng lượng trung bình: 0,6 ± 0,1 g) được thả vào các bể 500 l riêng lẻ với độ mặn đạt 32‰ và duy trì sục khí liên tục. Nước trong bể được hàng ngày ở mức 30% bằng nước biển lọc cát tràn. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày với khẩu phần thí nghiệm ở mức 5% trọng lượng cơ thể. Nhiệt độ nước được duy trì ở 28 ± 1oC, trong khi pH dao động từ 8,1 đến 8,3 và ôxy hòa tan 6,5 - 7,3 mg/l. Sau 20 ngày cho ăn, 30 con tôm được chọn từ mỗi nghiệm thức để thử thách với V. alginolyticus. 6 con tôm cho mỗi nghiệm thức được sử dụng để đánh giá các thông số miễn dịch, bao gồm tổng số lượng bạch cầu (THC), hoạt động của phenoloxidase (PO), hoạt động bùng nổ hô hấp (RB), hoạt động của superoxide dismutase (SOD) và hoạt động của lysozyme (LYS); 6 con tôm nữa được sử dụng để phân tích hoạt động thực bào. Thêm 6 con tôm được sử dụng để đánh giá các biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch, bao gồm enzym hoạt hóa propnoloxidase (PPA), propnoloxidase (proPO) I, peroxinectin (PE), lipopolysaccharide- và protein liên kết β-1,3-glucan (LGBP), glutathione peroxidase (GPx) và LYS. Hơn nữa, phân tích chuyển hóa heapatopancreas của 6 con tôm được phân tích bằng phương pháp đánh giá chuyển hóa dựa trên 1H-NMR.

Kết quả

Tôm được nuôi bằng chế độ ăn có bổ sung S. suae có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể trong 96 giờ sau thử thách so với tôm đối chứng (p> 0,05). Tỷ lệ sống của tôm ở các nhóm S0, S2,5, S5 và S7,5 lần lượt là 30,0 ± 0,00%, 46,6 ± 0,15%, 56,6 ± 0,06% và 66,6 ± 0,06% (Hình 1).

Hình 1. Tỷ lệ sống (%) của tôm được nuôi bằng chế độ ăn đối chứng (S0), và chế độ ăn Sarcodia suae (2,5% (S2,5), 5% (S5) và 7,5% (S7,5)). Trục hoành thể hiện thời gian sau khi được tiêm Vibrio alginolyticus. Mỗi dữ liệu đại diện cho sai số trung bình và tiêu chuẩn (SE) của 3 lần lặp lại (10 con tôm cho mỗi lần lặp lại).

Chất chiết xuất từ ​​tảo đã được sử dụng để giảm nguy cơ nhiễm bệnh trong nuôi tôm. Trong nghiên cứu này, bổ sung S. suae trong thức ăn đã bảo vệ tôm chống lại sự nhiễm khuẩn Vibrio. Tôm ở nhóm S7,5 có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể (66,6%) sau khi được tiêm V. alginolyticus so với đối chứng. Những phát hiện này cho thấy rằng cho tôm ăn S. suae mà không cần chiết xuất hóa chất cũng có thể giúp ngăn ngừa nhiễm Vibrio, do đó bột S. suae có thể được áp dụng trong nuôi TTCT để giảm nguy cơ nhiễm Vibrio.

Trong nghiên cứu này, tôm được nuôi bằng thức ăn có bổ sung S. suae trong 20 ngày cũng có phản ứng miễn dịch tốt hơn so với đối chứng. Mặc dù không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hoạt động SOD, RBs, hoạt động LYS và hoạt động PO giữa các nhóm, tất cả các chế độ ăn có rong biển đều cải thiện PA và chiếm THC cao hơn đáng kể ở nhóm S7,5 (Bảng 1).

Bảng 1: Thành phần nguyên liệu của các nghiệm thức trong thí nghiệm

Các biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch của tôm được cho ăn chế độ ăn thử nghiệm được thể hiện trong Hình 1. Không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện trong biểu hiện gen của LGBP, PPA, proPOI, PE và LYS trong hồng cầu của tôm giữa tất cả các nghiệm thức (Hình 1 A, B, C, D và F). Tôm được nuôi bằng nghiệm thức S7,5 cho thấy biểu hiện gen GPx cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng và S2,5 (Hình 1E). Sự biểu hiện gen của GPx tăng lên đáng kể 1,54 lần so với nhóm đối chứng và S2,5 (Hình 1 E). Trong gan tụy, không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện trong biểu hiện gen của PPA, PE, LYS, GPx, LGBP và proPO giữa các nhóm.

Lê Chinh

Theo Sciencedirect

Email
Họ tên
Nội dung

Top